Tóm tắt: Những năm gần đây, Biển Đông đã và đang là một trong những điểm nóng địa - chính trị quy mô khu vực và toàn cầu. Nhiều quốc gia trong và ngoài khu vực đang bị lôi kéo vào cuộc đấu tranh giành chủ quyền, quyền tự do hàng hải trên nhiều lĩnh vực và hoạt động. Cuộc chiến công hàm đang là chủ điểm nổi bật trong cuộc chiến pháp lý nhằm biến vùng biển này dần trở thành một khu vực hòa bình, tự do đi lại trong châu Á - Thái Bình Dương tự do và rộng mở. Những diễn biến, hệ quả của cuộc chiến này đang và sẽ có những tác động nhiều mặt đến các nước trong và ngoài khu vực. Tác động và ảnh hưởng của cuộc chiến đối với Việt Nam là đáng kể trong cuộc đấu tranh gìn giữ chủ quyền biển đảo trước bối cảnh sức ép nặng nề từ các hành động “bắt nạt” gia tăng đột biến từ láng giềng phương Bắc.
Mở đầu: Biển Đông thực sự trở thành điểm nóng an ninh trong khu vực, có thể nói, từ năm 1953 khi chính quyền Đảng Cộng sản Trung Quốc chịu ảnh hưởng của các phần tử diều hâu (dưới đây viết gọn là Trung Quốc) chính thức “gói” khu vực này vào cái gọi là “đường chín đoạn” hay “đường lưỡi bò”. Mồi lửa bất ổn an ninh này tăng thêm vào năm 2009, khi Trung Quốc gửi Công hàm lên Tổng thư ký Liên Hợp Quốc tuyên bố quyền tối cao đối với “các đảo ở Biển Đông và các vùng lân cận”. Mặc dù ngày 12/7/2016, Tòa Trọng tài theo Phụ lục VII của Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển (UNCLOS) năm 1982 ở The Hague, Hà Lan tuyên bố yêu sách đường lưỡi bò của Trung Quốc không có cơ sở pháp lý cũng như Trung Quốc không có “quyền lịch sử” với các vùng biển ở Biển Đông(1), Trung Quốc đã không công nhận phán quyết trên đồng thời ngày càng gia tăng các hoạt động phi pháp tại đây. Tình hình đặc biệt nghiêm trọng từ năm 2019 trong bối cảnh các nước đang đối phó với đại dịch COVID -19 xuất phát từ chính thành phố Vũ Hán của Trung Quốc.
Cuộc đấu tranh giữa một bên có tham vọng độc chiếm Biển Đông làm “ao nhà” của mình và bên khác là các nước đấu tranh gìn giữ chủ quyền biển đảo, tự do hàng hải, đã và đang diễn ra ngày càng gay gắt với nhiều hình thức khác nhau. Nổi bật là cuộc đấu tranh pháp lý mà cuộc chiến công hàm là hình thức hợp lý được các bên lựa chọn. Đến nay, liên quan đến an ninh Biển Đông đã có hai cuộc chiến công hàm được ghi nhận: Cuộc chiến lần thứ nhất (1.0) bắt đầu năm 2009 đến năm 2011, cuộc chiến lần hai (2.0) nối tiếp từ năm 2019 hiện vẫn chưa có hồi kết.
-
Cuộc chiến công hàm
Trong thực tiễn sinh hoạt quốc tế và luật quốc tế, nguyên tắc Im lặng ngụ ý sự chấp thuận (Silence Implies Consent- SIC) được coi là hợp pháp. Vì thế nếu một bên (bên thứ nhất) đưa ra một văn bản (công thư, công hàm...) nào đó có nội dung làm tổn hại đến quyền và lợi ích của bên khác (bên thứ hai) mà bên khác im lặng (không có hành động nào đó để đáp trả) thì bên thứ nhất mặc định được coi là đạt được mục tiêu của họ. Chính vì vậy, mặc dù các “Công hàm (mà các nước khác) gửi Trung Quốc như giấy ném vào tường gạch”(2), các nước vẫn tiếp tục có các công thư, công hàm (gửi cho phía Trung Quốc hay cho các cơ quan quốc tế thẩm quyền) phản bác lại những quan điểm và hoạt động phi lý, phi pháp, mang tính “cưỡng đoạt”, “áp chế” của Bắc Kinh trong cuộc chiến Biển Đông, tạo ra các cuộc chiến công hàm.
1.1 Nguyên nhân
Nguyên nhân trực tiếp của cả hai cuộc chiến công hàm đều là hành động cụ thể của một bên (Trung Quốc) hoặc của một trong các nước thuộc bên đối lập.
Với cuộc chiến công hàm lần thứ nhất: Một là, nguyện vọng của Malaysia và Việt Nam được hưởng Vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) trong phạm vi 200 hải lý và giới hạn bên ngoài của vùng thềm lục địa kéo dài theo UNCLOS. Hai là, Trung Quốc đã gửi công hàm lên Liên Hợp Quốc nêu bản đồ đường chín đoạn và tuyên bố quyền tối cao đối với "các đảo ở Biển Đông và các vùng biển lân cận", yêu cầu Liên Hợp Quốc bác bỏ nguyện vọng của hai nước trên.
Đối với cuộc chiến lần thứ hai: Thứ nhất, Trung Quốc đã và đang tiến hành những hành động ngang ngược và mang tính cưỡng ép trên thực địa tại Biển Đông. Một số ví dụ nổi bật nhất gồm: việc nhóm tàu khảo sát Hải Dương Địa Chất 8 (Haiyang Dizhi 8) của Trung Quốc hoạt động tại vùng đặc quyền kinh tế Malaysia tháng 4/2020; Trung Quốc ngang nhiên công bố thành lập cái gọi là "quận đảo" Tây Sa và Nam Sa để "quản lý" quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam ngày 18/04/2020; Trung Quốc công bố các "danh xưng tiêu chuẩn" áp dụng cho "25 đảo, đá và 55 thực thể địa lý dưới biển ở Biển Đông" ngày 19/04/2020... Thứ hai, mong mỏi của Malaysia, Việt Nam và một số nước ASEAN muốn thực thi quyền EEZ trong phạm vi 200 hải lý và giới hạn bên ngoài của vùng thềm lục địa kéo dài theo UNCLOS tại Biển Đông cũng như đòi hỏi của các nước trong và ngoài khu vực cần chấm dứt các chính sách và hành động gây bất ổn của Trung Quốc tại vùng biển này, ổn định hóa khu vực hòa bình và rộng mở, tự do hàng hải theo đúng UNCLOS.
Tất cả những nguyên nhân trực tiếp đều bắt nguồn từ nguyên nhân sâu xa: tham vọng thiên niên kỷ của giới cầm quyền diều hâu trong ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc - độc chiếm Biển Đông. Năm 1959, Mao Trạch Đông ra chỉ thị: “Chúng ta phải giành cho được Đông Nam châu Á, bao gồm cả Miền Nam Việt Nam, Thái Lan, Miến Điện, Malaysia và Singapore… Một vùng như Đông Nam châu Á rất giàu, ở đấy có nhiều khoáng sản, xứng đáng với sự cần thiết phải chiếm lấy…”(3).
Từ đó đến nay, trong tư tưởng của những phần tử diều hâu trong ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc các thời kỳ đều có những đề xuất chiến lược để biến cuồng vọng trên thành hiện thực. Thời Tập Cận Bình có mục tiêu “Xây dựng cường quốc biển” và “Giấc mộng Trung Hoa” với công cụ chiến lược là Dự án siêu thế kỷ “Vành đai và Con đường”, trong đó bao gồm “Con đường tơ lụa trên biển thế kỷ 21”. Biển Đông được coi là khởi đầu cho tất cả các chiến lược trên và là khâu đột phá để Trung Quốc bảo vệ “sinh mệnh” trên biển(4), thực hiện cuồng vọng số một thế giới.
1.2 Cuộc chiến công hàm lần thứ nhất (1.0)
Tham gia “Cuộc chiến Công hàm” lần thứ nhất bắt đầu từ ngày 06/5/2009 cho đến năm 2011gồm: Trung Quốc và các nước không phải Trung Quốc (the non-Chinese littoral states) gồm: Malaysia, Việt Nam, Philippines và Indonesia.
Cuộc chiến này bắt đầu từ hành động của Malaysia và Việt Nam vào tháng 6/2009, nộp lên Liên Hiệp Quốc (LHQ) một thỏa thuận chung về giới hạn thềm lục địa tại Biển Đông mà hai nước này đã đạt được theo UNCLOS. Tuy nhiên, trên thực tế, cuộc chiến bắt đầu từ tháng 5/2009, khi Đại diện Thường trực của Trung Quốc tại LHQ gửi công hàm tới Tổng thư ký Ban Ki-moon, yêu cầu Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa (Commission on the Limits of the Continental Shelf - CLCS) của LHQ "không xem xét" hồ sơ của Malaysia và Việt Nam.
Từ năm 2009 đến 2011, đã có tới 12 công hàm được trao đổi, gồm Trung Quốc gửi 03 công hàm , Malaysia- 02, Philippines-03, Việt Nam- 03 và Indonesia-01(5).
Trong công hàm của riêng Malaysia và cả chung với Việt Nam và trong các công hàm khác của Việt Nam... nổi bật các nội dung: 1/ phản bác lập luận của Trung Quốc rằng Kuala Lumpur không có quyền xin thiết lập thềm lục địa ở vùng biển phía Bắc của biển Đông; 2/ Việt Nam, Malaysia có quyền thiết lập thềm lục địa của mình; 3/Khẳng định cái gọi là "đường chín đoạn" mà Trung Quốc tự vẽ ra để tuyên bố chủ quyền phần lớn biển Đông là vi phạm UNCLOS(6); Những yêu sách hàng hải của Bắc Kinh trên vùng biển này không có hiệu lực pháp lý.
Ngược lại, các công hàm từ phía Trung Quốc luôn nhắc lại quan điểm: 1/ các nước khác (ASEAN) không có quyền có thềm lục địa kéo dài (theo Bắc Kinh) vì sẽ lấn vào cái gọi là đường chín đoạn do họ tự vẽ; 2/ các đảo tại Biển Đông (quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, Scarbourough...) là lãnh thổ của Bắc Kinh; 3/ Bắc Kinh có quyền lịch sử tại Biển Đông...
Một sự kiện đặc biệt quan trọng liên quan đến cuộc chiến công hàm lần thứ nhất là phán quyết của Toà trọng tài, được quy định trong Phụ lục VII của UNCLOS năm 2013 vào năm 2016 rằng, “đường chín đoạn”, quyền lịch sử đối với các tài nguyên của Bắc Kinh tại Biển Đông không có giá trị pháp lý. Phán quyết cho phép các quốc gia ven biển mở rộng thềm lục địa ngoài 200 hải lý. Tuy nhiên, Bắc Kinh đã không thừa nhận phán quyết này và tiếp tục lắt léo hòng “lách” luật biển quốc tế, trong đó có UNCLOS năm 1982.
1.3 Cuộc chiến công hàm lần hai (2.0)
Khởi đầu cuộc chiến công hàm lần hai lại chính là Malaysia, nước đã đệ trình công hàm mới ngày 12/12/2019 liên quan đến ranh giới thềm lục địa ngoài 200 hải lý theo quy định của luật Biển quốc tế và Công ước LHQ về Luật biển UNCLOS năm 1982, với nội dung có điểm mới hơn so với nội dung trong công hàm lần đầu vào năm 2009.
Tham gia cuộc chiến công hàm lần hai gồm 02 nhóm nước ven biển là Trung Quốc và không phải Trung Quốc (the non-Chinese littoral states) + (Mỹ, Australia, Anh, Pháp, Đức). Các nước đã ra ít nhất 23 công hàm, công thư đệ trình lên các cơ quan và tổ chức thẩm quyền quốc tế. Trong đó, Trung Quốc đã gửi 7 công hàm và 1 công thư; Việt Nam - 3 công hàm; Philippines-3, Indonesia và Malaysia mỗi nước gửi 2 , Mỹ - 1, Australia - 1; và Anh, Đức, Pháp gửi chung 1 công hàm...
Mở đầu cuộc chiến lần này ngày 12/12/2019 là công hàm của Malaysia gửi CLCS và công hàm của Trung Quốc phản hồi đệ trình của Malaysia. Tiếp đến, ngày 06/3/2020 và 26/3/2020, Philippines đã ra công hàm đáp trả Công hàm của Malaysia và Trung Quốc. Ngày 23/3/2020, Trung Quốc ra công hàm đáp trả công hàm của Malaysia và Philippines. Ngày 30/03/2020, Việt Nam ra liền 3 công hàm để bày tỏ lập trường của mình. Ngày 26/5, Indonesia ra công hàm phản đối các Công hàm của Trung Quốc. Ngày 1/06/2020, Mỹ ra công thư, ngày 27/07/2020, Australia ra công hàm bác bỏ tất cả các yêu sách của Trung Quốc trái với UNCLOS 1982, Anh, Pháp, Đức ra công hàm ngày 16/09/2020...
“Vũ khí” Trung Quốc sử dụng trong các công hàm của nước này chủ yếu là những yêu sách “quyền lịch sử” với quyền lợi hàng hải đầy đủ cho các đặc điểm trên Biển Đông theo cách hiểu và luật pháp riêng của Bắc Kinh. Họ luôn cho rằng, các nước tranh chấp với Bắc Kinh tại Đông Nam Á có những “định kiến” với Bắc Kinh trong các công thư, công hàm đòi hỏi chủ quyền. Tuy nhiên, gần đây với sự tham gia cuộc chiến công hàm lần hai của một số nước ngoài khu vực, trước hết là Mỹ và Australia, Anh, Pháp, Đức, Bắc Kinh đã và đang phải đối mặt với sự thật là chính họ cần phải sửa đổi lại quan niệm và “quyền lịch sử” của họ tại Biển Đông.
Trong Công thư Mỹ gửi Liên Hợp Quốc liên quan đến cuộc chiến Biển Đông tháng 6/2020 thể hiện 3 điểm chính. Thứ nhất, Hoa Kỳ phản đối yêu sách “quyền lịch sử” của Trung Quốc tại Biển Đông mà Trung Quốc mở rộng yêu sách này đối với các quyền lợi biển mà Trung Quốc khẳng định là phù hợp với luật quốc tế, cụ thể là UNCLOS; Thứ hai, Hoa Kỳ phản đối việc Trung Quốc áp dụng một cách phi lý trong việc tự ý tuyên bố đường cơ sở thẳng bao quanh các cấu trúc nằm rải rác tại Biển Đông như trong trường hợp một quốc gia quần đảo; Thứ ba, Hoa Kỳ phản đối các yêu sách về các quyền lợi biển mà Trung Quốc tuyên bố dựa trên các cấu trúc tại Biển Đông. Trong khi các cấu trúc này không đáp ứng được yêu cầu là “đảo” như quy định tại Điều 121 (1) của UNCLOS. Theo đó, các cấu trúc này vì không đáp ứng được yêu cầu là “đảo” cho nên sẽ không thể có vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) và thềm lục địa (CS) kèm theo; Thứ tư, khi khẳng định các “yêu sách biển quá đáng” của mình, Trung Quốc đã hàm ý hạn chế các quyền và sự tự do, bao gồm quyền hải hành và tự do hải hành cho tất cả các quốc gia khác.
Tương tự, Công hàm của chính phủ Australia gửi Liên Hợp Quốc tháng 7/2020 cũng nhấn mạnh một số điểm quan trọng. Thứ nhất, “Chính phủ Australia bác bỏ tất cả các yêu sách của Trung Quốc trái với UNCLOS 1982, cụ thể là các yêu sách vùng biển không tuân thủ quy định công ước về đường cơ sở, các vùng biển và phân loại những thực thể”, Australia nhấn mạnh trong công hàm ngày 23/7; Thứ hai, cái gọi là “quyền lịch sử và quyền hàng hải” “đã được thiết lập từ lâu” mà Trung Quốc đưa ra để biện minh cho Đường 9 đoạn là “trái với UNCLOS” và “vô giá trị”. Thứ ba, Khẳng định phán quyết năm 2016 của Tòa trọng tài thành lập theo phụ lục VII UNCLOS đã làm rõ điều này.
Trong công hàm của ba nước châu Âu- Anh, Pháp, Đức (E3) nhấn mạnh hầu như những điểm cơ bản mà Hoa Kỳ, Australia... đã nêu về tính phi pháp của Trung Quốc đối với vấn đề Biển Đông. Nổi bật nhất gồm: 1/ Không có cơ sở pháp lý nào để các quốc gia lục địa, cụ thể là Trung Quốc, coi các quần đảo hoặc các đối tượng địa lý biển như một thực thể mà không tôn trọng các quy định liên quan trong Phần II của UNCLOS hoặc bằng cách sử dụng các quy định trong Phần IV chỉ áp dụng cho các quốc gia quần đảo và 2/ Việc Trung Quốc thực thi “quyền lịch sử” trên Biển Đông là không tuân thủ luật pháp quốc tế và các điều khoản của UNCLOS, đồng thời ba nước tái khẳng định tính pháp lý của phán quyết Tòa trọng tài năm 2016 giữa Philippines và Trung Quốc(7).
1.4 Hệ quả
Kết quả rõ ràng nhất của cả hai cuộc chiến công hàm là sự củng cố thêm nữa quyết tâm của các bên nhằm khẳng định và thực hiện mục tiêu đề ra của mình. Một là, Trung Quốc khăng khăng và đẩy mạnh các hành động quân sự hóa Biển Đông, biến hóa “đường lưỡi bò” thành đòi hỏi “Tứ Sa” lảng tránh phán quyết của Tòa trọng tài năm 2016, quyết biến Biển Đông thành “ao nhà” của Bắc Kinh. Hai là, các nước ASEAN kiên trì đấu tranh pháp lý và trên thực địa nhằm bảo vệ chủ quyền, quyền và lợi ích chính đáng của mình tại Biển Đông; Ba là, vấn đề Biển Đông trở thành quốc tế hóa rõ ràng và mạnh mẽ hơn khi có các nước khác ngoài khu vực tham gia cuộc chiến công hàm: Mỹ, Australia, Anh, Pháp Đức có công thư, công hàm phản đối các hành động ngang ngược của Trung Quốc, phủ quyết “quyền lịch sử” của Bắc Kinh tại Biển Đông, Ấn Độ, Nhật Bản... có các tuyên bố ủng hộ quan điểm của một số nước ASEAN.
Tình hình Biển Đông nóng hơn lên do: các hoạt động khẳng định chủ quyền trên thực địa của Trung Quốc (các cuộc thăm dò khảo sát tại các EEZ của các nước, các cuộc tập trận bắn đạn thật tại Hoàng Sa và Trường Sa, đưa thêm vũ khí ra Hoàng Sa(8)) và phản ứng của các nước trong và ngoài khu vực (các cuộc tập trận của Mỹ, tập trận chung Mỹ - Nhật Bản, Mỹ- Australia...).
Các nước trong và ngoài khu vực “xích lại” gần nhau hơn cả về quan điểm lẫn hành động thực địa phản đối Trung Quốc. Dư luận trong và ngoài khu vực nhận rõ bản chất “bành trướng” của Trung Quốc, ủng hộ quan điểm của các nước ASEAN, các hành động của Mỹ, Australia, Nhật Bản, Ấn Độ... về châu Á-Thái Bình Dương tự do và rộng mở tại khu vực Biển Đông.
Công hàm của Australia là “cú đánh trực diện từ Canberra tới Bắc Kinh”, gián tiếp giúp tăng cường sức mạnh đàm phán của ASEAN với Trung Quốc về dự thảo Bộ Quy Tắc Ứng Xử về Biển Đông (COC) trong khu vực(9).
-
Tác động đến Việt Nam
Việt Nam là một trong các bên tham gia tích cực vào cuộc chiến công hàm, cả lần một (1.0) lẫn lần hai (2.0). Tham gia cuộc chiến, Việt Nam có hai mục tiêu chủ yếu: bảo vệ chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trước sự xâm lược của Trung Quốc; và xác định chủ quyền theo quy định của CLCS theo UNCLOS về ranh giới thềm lục địa ngoài 200 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải của Việt Nam tại các khu vực ở Biển Đông. Nhìn chung, nội dung của 3 công hàm năm 2020 của Việt Nam đều ít nhiều liên quan đến hai mục tiêu trên. Trọng tâm của Công hàm số 22/HC-2020 là phản đối công hàm CML/11/2020 của Trung Quốc, thể hiện rõ quan điểm của Việt Nam về chủ quyền của Hà Nội đối với Hoàng Sa và Trường Sa: Một là, Việt Nam phản đối các yêu sách của Trung Quốc, vi phạm nghiêm trọng chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam tại Biển Đông; Hai là, Việt Nam có đầy đủ chứng cứ lịch sử và cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, phù hợp với các quy định của luật pháp quốc tế; Ba là, Việt Nam có cơ sở pháp lý duy nhất, quy định toàn diện và triệt để về phạm vi quyền được hưởng vùng biển giữa Việt Nam và Trung Quốc. Theo đó, vùng biển của các cấu trúc luôn nổi tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa phải được xác định phù hợp với Điều 121(3) của UNCLOS 1982; các nhóm đảo tại Biển Đông, bao gồm quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, không có đường cơ sở được vẽ bằng cách nối liền các điểm ngoài cùng của các cấu trúc xa nhất; các bãi ngầm, hoặc cấu trúc lúc chìm lúc nổi không phải là đối tượng thụ đắc lãnh thổ và không có vùng biển riêng. Việt Nam phản đối các yêu sách ở Biển Đông vượt quá những giới hạn được quy định tại UNCLOS 1982, trong đó có yêu sách “quyền lịch sử”, các yêu sách này đều không có giá trị pháp lý.
Trọng tâm quan trọng nhất trong hai công hàm 24/HC-2020, 25/HC-2020 của Việt Nam- “Việt Nam lưu ý rằng theo Điều 76 (10) và Phụ lục II của UNCLOS 1982 mà cả Việt Nam và Malaysia là thành viên, hoạt động của CLCS không làm phương hại đến các vấn đề liên quan đến phân định ranh giới giữa các quốc gia có bờ biển đối diện hoặc tiếp liền”, là nhằm nhắc tới vai trò của CLCS trong việc nếu có công nhận thềm lục địa mở rộng của Malaysia thì cũng không được vượt quá các quyền của Việt Nam trong việc phân định ranh giới biển giữa Việt Nam và Malaysia.
Cần làm rõ thêm một chi tiết rất quan trọng, lâu nay nhiều người tại Việt Nam và nước ngoài từng băn khoăn, liên quan đến tranh chấp giữa Trung Quốc và Việt Nam trong các cuộc chiến công hàm. Rất nhiều lần (đặc biệt là Công hàm số CML/42/2020) Trung Quốc nhắc đến “công hàm Phạm Văn Đồng” để “xác nhận” rằng, Việt Nam đã công nhận Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ của Trung Quốc. Tuy nhiên, nhiều nhà nghiên cứu và luật gia trong và ngoài nước, trong những năm gần đây, đã chỉ rõ rằng, không có cơ sở pháp lý chính đáng nào biện minh cho “lập luận” trên của Bắc Kinh. Quan điểm chính thức của Việt Nam về Công thư Phạm Văn Đồng đã được đề cập rõ trong Sách trắng về Chủ quyền của Việt Nam đối với Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa năm 1979, trong các tài liệu của Việt Nam gửi đến và được lưu hành tại Liên Hợp Quốc số A/68/942 và A/72/692(10). Đó là: (i) Công hàm (thực chất là Công thư) của cố Thủ tướng là văn bản ngoại giao; (ii) nội dung chính của công thư là Việt Nam tôn trọng vấn đề 12 hải lý nêu trong công thư của Trung Quốc, không đề cập tới Hoàng Sa, Trường Sa, vì thế đương nhiên không có giá trị pháp lý với Hoàng Sa và Trường Sa; (iii) vào thời điểm công thư Phạm Văn Đồng được gửi đến Trung Quốc thì Hoàng Sa và Trường Sa đang là lãnh thổ thuộc chủ quyền của Việt Nam Cộng hòa và họ đang quản lý, chưa thuộc chủ quyền của Việt Nam Dân chủ cộng hòa (do Phạm Văn Đồng khi đó là Thủ tướng) cũng như không thuộc chủ quyền của Trung Quốc mà Bắc Kinh đã tự liệt kê vào lãnh thổ của họ với tên gọi Tây Sa, Nam Sa; (iv) vì thế công thư của Việt Nam Dân chủ cộng hòa không có giá trị chủ quyền với Tây Sa, Nam Sa theo cách gọi của Trung Quốc(11). Trên thực tế, đến nay không nước nào trên thế giới công nhận Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của Trung Quốc.
Cuộc chiến giành lại Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam sẽ là cuộc chiến trường kỳ và gian khổ. Cuộc chiến công hàm 1.0 và 2.0 là một trong những giai đoạn và biện pháp góp phần vào thắng lợi cuối cùng cho cuộc chiến lâu dài trên.
Kết quả của hai cuộc chiến công hàm, bước đầu, đã có những tác động và ảnh hưởng nhất định đến cuộc đấu tranh của Việt Nam trong các vấn đề phức tạp tại Biển Đông. Cuộc chiến đã tăng cường lực lượng, cùng với Việt Nam, phản đối và bác bỏ những luận điểm chiếm đóng trái phép các thực thể tại Biển Đông của Trung Quốc. Việc tham gia của Mỹ, Australia, Anh, Pháp, Đức vào cuộc chiến công hàm, với những bác bỏ công khai “quyền lịch sử” của Trung Quốc đối với các thực thể và vùng nước trong cái gọi là đường chín đoạn hay đường lưỡi bò của Trung Quốc là vô giá trị, cộng với những tuyên bố của Ấn Độ, Nhật Bản...theo xu hướng trên đẩy Trung Quốc ngày càng cô lập trên trường quốc tế. “Từ nay Việt Nam không “cô đơn” trong vấn đề tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc”(12).
Ưu tiên trong sách lược hiện nay của Việt Nam và ASEAN là việc tuân thủ luật pháp quốc tế, nhất là Công ước quốc tế về Luật Biển của LHQ 1982. Nhà nghiên cứu Đinh Hoàng Phúc cho rằng, "trận chiến công hàm" trong thời gian gần đây cho thấy Việt Nam và các nước ASEAN dùng yêu sách mở rộng vùng đặc quyền kinh tế ra 350 hải lý và cơ chế hoạt động của Ủy ban Ranh giới thềm lục địa của LHQ để 'bắt chết' tham vọng của Trung Quốc trên Biển Đông(13). TS. Bec Strating thuộc Đại học La Trobe (Úc) nhận định việc (Canbera) đệ trình công hàm lên LHQ vào thời điểm này "rất có ý nghĩa", Úc đã bác bỏ cái gọi là quyền lịch sử của Trung Quốc trên Biển Đông dựa theo phán quyết năm 2016 của Tòa trọng tài quốc tế. Hành động lần này của Úc là một chiến thắng cho những ai thượng tôn luật pháp quốc tế trên Biển Đông. TS. Sascha- Dominik Dov Bachmann - giáo sư tại Trường luật Canberra, ĐH Canberra (Úc) khẳng định: "Đây có thể được xem là sự đẩy lùi dành cho việc bành trướng của Trung Quốc về yêu sách biển ở Đông Nam Á”(14).
Mở rộng thêm cơ hội để Việt Nam có thể kiện Trung Quốc về các vấn đề Biển Đông trong trường hợp cần thiết. Trong cuộc chiến công hàm 2.0, Việt Nam lần đầu tiên đưa ra “Công hàm Biển Đông “mới mẻ, chưa từng có”. Theo Tiến sỹ Trần Công Trục, nguyên Trưởng ban Biên giới Chính phủ Việt Nam, có ba điểm mới trong công hàm này: (i) Các thực thể đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, phải được xác định hiệu lực theo Điều 121, Khoản 3, tức là những đảo nào không thích hợp cho con người ở và không có đời sống kinh tế riêng, như các thực thể trong hai quần đào này, thì không có vùng đặc quyền kinh tế và vùng thềm lục địa 200 hải lý như Công ước Luật biển quy định, mà chỉ có tối đa 12 hải lý; (ii) Những bãi cạn lúc chìm, lúc nổi hoặc hoàn toàn chìm, không phải là đối tượng của quyền thủ đắc lãnh thổ; (iii) Trung Quốc nói những bãi cạn nằm trên thực địa của Việt Nam, của Philippines, cũng như của Malaysia là phần lãnh thổ của Trung Quốc là không đúng, hơn nữa, họ nói chủ quyền lịch sử của Trung Quốc nằm trong trong đường Lưỡi bò (hay bản đồ đường 9 đoạn) cũng là hoàn toàn sai. Đây là những nội dung mà chúng ta nêu rõ quan điểm và là nội dung chúng ta có thể đưa ra các cơ quan tài phán quốc tế(15).
Kết luận
Những hành động ngang ngược, bất chấp luật pháp quốc tế của Trung Quốc tại khu vực Biển Đông thời gian gần đây là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cuộc chiến công hàm lần hai (2.0) xung quanh các vấn đề an ninh, chủ quyền của các nước trong khu vực. Cuộc chiến lần này còn có các nước ngoài khu vực tham gia như Mỹ, Australia, Anh, Pháp, Đức.
Cuộc chiến thể hiện rõ rằng, phán quyết của Tòa trọng tài năm 2016 có ý nghĩa quan trọng. Luật pháp quốc tế, đặc biệt là UNCLOS năm 1982, cơ chế hoạt động của Ủy ban Ranh giới thềm lục địa của LHQ với việc cho phép các nước ven biển mở rộng vùng đặc quyền kinh tế ra 350 hải lý...là cơ sở pháp lý quan trọng nhất để giải quyết những tranh chấp liên quan đến các nước ven biển, trong đó có tranh chấp giữa Trung Quốc và các nước ASEAN tại Biển Đông.
Việc giải quyết những vấn đề tranh chấp không thể thành công nếu chỉ sử dụng các cơ chế đơn phương với các luật lệ “ao nhà”. Ngoại trưởng Indonesia Retno Marsudi rất đúng khi khẳng định rằng, đối thoại là "cách tốt nhất" để giải quyết xung đột, đồng thời nêu bật "nguyên tắc nhất quán" được Indonesia đề cao trong việc giải quyết tranh chấp lãnh thổ và tranh giành quyền lực ở Biển Đông là "tôn trọng luật pháp quốc tế"(16).
Là một trong các bên tham gia cuộc chiến, Việt Nam luôn thể hiện tinh thần tôn trọng luật pháp quốc tế và dựa vào đó để đấu tranh bảo vệ chủ quyền và quyền chủ quyền của mình đối với phần lãnh thổ và các thực thể vốn thuộc chủ quyền của mình tại Biển Đông. Cuộc chiến công hàm 2.0 có những ảnh hưởng và tác động nhiều mặt đến cuộc đấu tranh của Việt Nam tại Biển Đông. Theo GS. Carl Thayer thuộc Đại học New South Wales, Australia, việc Malaysia đệ trình yêu sách về thềm lục địa mở rộng ở phía bắc Biển Đông lên Liên Hiệp Quốc tháng 12/2019 đã mở ra khả năng hình thành một mặt trận pháp lý thống nhất có sự tham gia của Malaysia, Philippines, Việt Nam và Indonesia để phản đối các yêu sách của Trung Quốc về quyền lịch sử và quyền tài phán đối với vùng biển xung quanh Tứ Sa(17). Mặt trận này còn được sự hỗ trợ của một số nước ngoài khu vực, khi họ tham gia cuộc chiến công hàm lần 2 như Mỹ, Australia, Anh, Pháp, Đức.
Cuộc chiến công hàm 2.0 đem lại nhiều khả năng hơn cho Việt Nam trong cuộc đấu tranh trong thời gian tới. Tuy nhiên, dù có thuận lợi hơn, thậm chí cả thắng lợi, giống như thắng lợi của Philippines năm 2016, trên mặt trận ngoại giao, pháp lý, cuộc chiến của Việt Nam vẫn rất khó khăn và kéo dài. Với một đối thủ luôn có những chiến lược, chiến thuật biến đổi khó lường và một tham vọng “sắt đá” độc chiếm Biển Đông thì việc lấy lại Hoàng Sa và bảo vệ nguyên trạng Trường Sa của Việt Nam vẫn rất gian nan. Việc tranh thủ đồng tình và ủng hộ của dư luận khu vực và quốc tế trong cuộc đấu tranh của mình là rất quan trọng. Để có được thành tựu cụ thể, Việt Nam cần có chiến lược khôn khéo, phù hợp, trong thế cân bằng lực lượng khu vực. Nhân tố quyết định để Việt Nam gìn giữ chủ quyền vẫn là sự đoàn kết nhất trí nội bộ trong việc lập ra và thực hiện các quyết sách lớn. Quan trọng hơn cả, Việt Nam cần phải tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia.
Tài liệu tham khảo:
3. Mỹ Hằng (2020), Biển Đông: Học giả Trung Quốc nói Việt Nam có thể nhượng bộ chủ quyền Hoàng Sa cho Bắc Kinh, https://www.bbc.com/vietnamese/vietnam-53845213, Truy cập: 20/08/2020.
4. Trần H. D. Minh (2020), Quan điểm chính thức của Việt Nam về Công thư do Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký gửi Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân lai năm 1958, https://iuscogens-vie.org/2020/04/26/186-quan-diem-chinh-thuc-cua-viet-nam-ve-cong-thu-ttg-pham-van-dong-nam-1958/, Truy cập: 26/04/2020.
5. Elena Nikulina (2017), "Chính sách của Trung Quốc ở Đông Nam Á: từ xưa đến nay", https://vn.sputniknews.com/opinion/201702232971408-trung-quoc-dong-nam-a/, Truy cập: 23/02/2017.
6. Sự Thật về Quan Hệ Việt Nam - TrungQuốc Trong 30 Năm Qua, Nhà Xuất bản Sự Thật (1979), tái bản 1980, Trích theo: Phạm Cao Dương, 2019, Mưu Độc NgànNăm: Nguy Cơ Mất Nước Trong Thời Đại Mới Là Chuyện Có Thực?, http://hoangsaparacels.blogspot.com/2019/04/muu-oc-ngan-nam-nguy-co-mat-nuoc-trong.html, Truy cập: 12/04/ 2019.
7. Sự thật Công thư 1958 của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng,
https://tuoitre.vn/su-that-cong-thu-1958-cua-co-thu-tuong-pham-van-dong-609181.htm, Truy cập: 24/05/2014.
8. Đỗ Minh Cao (2013, chủ biên), Sự trỗi dậy về quân sự của Trung Quốc và những vấn đề đặt ra cho Việt Nam, NXB Từ Điển Bách khoa, H., 2013.
9. Lưu Hoàn Phố (2020), Cuộc chiến công hàm, https://vietquoc.com/2020/07/27/cuoc-chien-cong-ham/, Truy cập: 27/07/ 2020.
10. Hồng phúc (2020), Ngoại trưởng Indonesia: Đối thoại là cách duy nhất giải quyết xung đột ở Biển Đông, Trung Quốc cần tôn trọng UNCLOS, https://baoquocte.vn/ngoai-truong-indonesia-doi-thoai-la-cach-duy-nhat-giai-quyet-xung-dot-o-bien-dong-trung-quoc-can-ton-trong-unclos-120654.html, Truy cập: 01/08/2020.
11. Quốc Phương (2020), Biển Đông: Việt Nam cần tính đến kịch bản Trung Quốc 'tấn công' từ nhiều hướng?https://www.bbc.com/vietnamese/vietnam-53678526, Truy cập: 06/08/2020.
14. VN: Công hàm Biển Đông ‘mới mẻ, chưa từng có’
https://www.datviet.com/vn-cong-ham-bien-dong-moi-me-chua-tung-co/, Truy cập: 13/04/ 2020.
15. Lam, Willy (2009), "Beijing Learns to be a Superpower", Far Eastern Economic Review, 1/5/2009. Trích theo: Nguyễn Trung (2010), Việt Nam trong thế giới của thập kỷ thứ hai thế kỷ 21.Thời đại mới. Số 18 - Tháng 3/2010.http://www.tapchithoidai.org/ThoiDai18/201018_NguyenTrung.htm, Truy cập: 09/03/2010.
Chú thich
1.Tòa trọng tài bác yêu sách đường lưỡi bò của Trung Quốc, https://tuoitre.vn/toa-trong-tai-tuyen-philippines-thang-kien-trung-quoc-1135699.htm, truy cập ngày 12/07/2016.
3. Elena Nikulina (2017), "Chính sách của Trung Quốc ở Đông Nam Á: từ xưa đến nay", https://vn.sputniknews.com/opinion/201702232971408-trung-quoc-dong-nam-a/, Truy cập ngày 23/02/2017.
4. Lam, Willy (2009), "Beijing Learns to be a Superpower", Far Eastern Economic Review, 1/5/2009. Trích theo: NguyễnTrung (2010), “Việt Nam trong thế giới của thập kỷ thứ hai thế kỷ 21”, Thời đại mới, số 18 -Tháng 3/2010, http://www.tapchithoidai.org/ThoiDai18/201018_NguyenTrung.htm, truy cập ngày 09/03/2010.
5. Nguyễn Hồng Thao, South China Sea: The Battle of the Diplomatic Notes Continues
https://thediplomat.com/2020/08/south-china-sea-the-battle-of-the-diplomatic-notes-continues/, truy cập ngày 04/08/2010.
6. Indonesia đã có công hàm No. 480/POL-703/VII/10 ngày 8/7/2010 bác bỏ đường yêu sách 9 đoạn của Trung Quốc đưa ra năm 2009. Indonesia khẳng định ‘không phải là quốc gia yêu sách có tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông” và “cái gọi là bản đồ đường 9 đoạn có trong công hàm CML/17/2009 (của Trung Quốc) ngày 7/5 rõ ràng thiếu cơ sở luật quốc tế và hoàn toàn ngược lại với Công ước Luật biển 1982” (The so-called 'nine-dotted lines map' as contained in the above circular note Number CML/17/2009 dated 7th May 2009 clearly lacks international legal basis and is tantamount to upset the UNCLOS 1982).
7. Drake Long (2020), Germany, France, UK Rebuke Beijing Over South China Sea, https://www.rfa.org/english/news/china/europe-southchinasea-09172020190344.html, Truy cập ngày 17/09/2020.
10. Việt Anh (2020), Việt Nam phản đối các bên điều vũ khí ra Hoàng Sa, https://vnexpress.net/viet-nam-phan-doi-cac-ben-dieu-vu-khi-ra-hoang-sa-4149693.html, Truy cập ngày 20/8/2020.
12. Lưu Hoàn Phố (2020), Cuộc chiến công hàm, https://vietquoc.com/2020/07/27/cuoc-chien-cong-ham/, Truy cập ngày 27/07/ 2020.
13. Quốc Phương (2020), Biển Đông: Việt Nam cần tính đến kịch bản Trung Quốc 'tấn công' từ nhiều hướng?https://www.bbc.com/vietnamese/vietnam-53678526, Truy cập ngày 06/08/2020.
14. Nguyễn Hồng Thao (2020), Công hàm Biển Đông của Úc là khởi đầu đẩy lùi việc bành trướng của Trung Quốc
https://tuoitre.vn/cong-ham-bien-dong-cua-uc-la-khoi-dau-day-lui-viec-banh-truong-cua-trung-quoc-20200726075753685.htm, Truy cập ngày 26/07/2020.
15. VN: Công hàm Biển Đông ‘mới mẻ, chưa từng có’
https://www.datviet.com/vn-cong-ham-bien-dong-moi-me-chua-tung-co/, Truy cập: 13/4/ 2020
16. HỒNG Phúc, 2020,Ngoại trưởng Indonesia: Đối thoại là cách duy nhất giải quyết xung đột ở Biển Đông, Trung Quốc cần tôn trọng UNCLOS, https://baoquocte.vn/ngoai-truong-indonesia-doi-thoai-la-cach-duy-nhat-giai-quyet-xung-dot-o-bien-dong-trung-quoc-can-ton-trong-unclos-120654.html, Truy cập: 01/08/2020
17. Mỹ Hằng (2020), Biển Đông: Học giả TQ nói VN có thể nhượng bộ chủ quyền Hoàng Sa cho Bắc Kinh, https://www.bbc.com/vietnamese/vietnam-53845213, Truy cập: 20/08/2020.
TS. Đỗ Minh Cao, TS. Lê Văn Mỹ
Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, Số 1 năm 2021