Trong khoảng 20 năm qua, bằng nhiều tên gọi khác nhau, chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo, chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi là 3 trong số các chương trình lớn nhất, liên tục được thực hiện tại Việt Nam. Những chương trình này, đều hướng tới các nhóm yếu thế, các khu vực khó khăn, thực hiện các mục tiêu về an sinh, công bằng và phát triển xã hội. Vì thế, sau khi Việt Nam có các động thái điều chỉnh, sắp xếp lại các chương trình mục tiêu quốc gia thì đây vẫn là 3 chương trình được duy trì với độ bao phủ rộng khắp.
Do có tính liên tiếp và kế thừa, chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo, chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi có mục tiêu chung, bao trùm cả chương trình và có các mục tiêu cụ thể theo từng giai đoạn. Các kết quả, tồn tại của giai đoạn trước thường sẽ là mục tiêu của giai đoạn sau. Do đó, để có cơ sở cho việc đề xuất các chương trình mục tiêu quốc gia này cho giai đoạn 2021-2025 thì cần phải rà soát đánh giá lại các chương trình này trong giai đoạn 2016-2020. Ở giai đoạn 2016-2020, có 2 chương trình mục tiêu quốc gia là chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo, chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới. Riêng chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi ở giai đoạn trước chủ yếu được biết đến nhiều hơn với tên gọi chương trình 135.
Do phạm vi rộng lớn về không gian và thời gian nên 3 chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo, chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi sẽ có nhiều điểm tương đồng về đối tượng, địa bàn, mục tiêu…Chính vì vậy, điểm then chốt trong việc thiết kế và thực hiện 3 chương trình này là cần phải tối ưu hóa khả năng đầu tư, lồng ghép các nguồn lực, phối hợp thực hiện, giảm chồng chéo. Ưu tiên giải quyết các vấn đề cấp bách, giải quyết triệt để được các tồn tại liên quan tới giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, phát triển kinh tế xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.
Định hướng đầu tư đúng với các chương trình mục tiêu quốc gia không chỉ là vấn đề xác định nguồn lực, cách thức huy động nguồn lực, cách thức phát huy hiệu quả nguồn lực mà còn xác định trúng các vấn đề then chốt, các điểm đột phá trong cả một chương trình rộng lớn với vô số các mục tiêu khác nhau.
Ngày 18/1/2022, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025. Chương trình được thiết kế với 7 dự án, cùng tổng nguồn lực tối thiểu 75.000 tỷ đồng. Với mục tiêu giảm nghèo đa chiều, bao trùm, bền vững, hạn chế tái nghèo và phát sinh nghèo, Chương trình tập trung hỗ trợ người nghèo, hộ nghèo vượt lên mức sống tối thiểu, tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản theo chuẩn nghèo đa chiều quốc gia, nâng cao chất lượng cuộc sống; hỗ trợ các huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo thoát khỏi tình trạng nghèo, đặc biệt khó khăn. Ở cấp Trung ương, Ban Bí thư đã ban hành Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 23/6/2021 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giảm nghèo bền vững đến năm 2030; Chính phủ ban hành Nghị quyết số 160/NQ-CP ngày 22/12/2021 phê duyệt Kế hoạch thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cấp ủy và UBND các cấp đều xây dựng kế hoạch cụ thể và đưa vào kế hoạch hằng năm của cấp ủy, chính quyền để triển khai thực hiện; tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và hành động, ý thức, trách nhiệm của các cấp, các ngành và toàn xã hội đối với công tác giảm nghèo bền vững; vận động đảng viên, cán bộ, công chức, người lao động và cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị giúp đỡ hộ nghèo, địa bàn khó khăn.
Công tác giảm nghèo trong 2 năm vừa qua đã đạt và vượt mục tiêu, chỉ tiêu Quốc hội, Chính phủ giao. Tỷ lệ hộ nghèo đã từ 9,88% năm 2015 (năm đầu kỳ) xuống còn 2,23% năm 2021, trung bình mỗi năm giảm 1,27%. Riêng năm 2022, ước tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều giảm khoảng 1,2% so với cuối năm 2021, đạt mục tiêu đề ra. Đã có nhiều tấm gương điển hình nỗ lực vươn lên thoát nghèo, sản xuất và làm kinh tế giỏi; hàng triệu hộ gia đình đã thoát nghèo, nhiều hộ có cuộc sống trung bình, khá giả; nhiều địa bàn nghèo thoát khỏi tình trạng đặc biệt khó khăn. Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội cho biết, dự kiến năm 2023, tỷ lệ nghèo đa chiều cả nước bình quân duy trì mức giảm 1-1,5%/năm. Trong đó, tỷ lệ hộ nghèo giảm 1,1%/năm đạt chỉ tiêu Quốc hội giao.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, công tác giảm nghèo còn đối diện với nhiều khó khăn, thách thức. Để đạt được mục tiêu “Giảm tỉ lệ nghèo đa chiều duy trì ở mức 1 - 1,5%/năm” góp phần thực hiện thành công mục tiêu phát triển bền vững giai đoạn 2022-2025, Việt Nam cần nỗ lực, quyết tâm thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Chỉ thị số 05-CT/TW của Ban Bí thư, Nghị quyết số 24/2021/QH15 của Quốc hội.
Lê Phương Hoà
Viện Nghiên cứu Đông Nam Á